-“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ . BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

15/2/11

15. Mãi mãi là bài học nhớ đời


Ngài đang Khai Thị cho Chân Tử

Bài học nhớ đời cho hiện tại và mãi mãi cho hậu lai.



Vào khoảng năm 1980, một hôm ở số 42 đường Hồng Bàng Nha Trang, có một bà chân tử Pháp Tạng ở xa về thăm Đức Tịnh Vương. Sau khi đảnh lễ và vấn an sức khỏe Ngài, bà thưa rằng: 

– Từ năm 1975 đến nay, con nghe nói hai đến ba lần, nhưng mới đây có người thân ở ngoài Bắc Việt Nam vào thăm, họ nói câu chuyện nghe qua con không tin và nghĩ rằng: chắc ở ngoài Bắc dân sống quá khắc khổ nên họ ghét người Cộng Sãn rồi đặt điều nói thêm. Lần đầu tiên con đi xe đò ra Bắc thăm bà con, khi xe chạy ngang qua địa phận tỉnh Hà Nam Ninh, chính tận mắt con trông thấy trên vách tường có viết hàng chữ lớn:


    *Thằng trời hãy đứng một bên
Để cho nông hội đứng lên thay trời

Lúc đó con mới tin họ nói thật. Con còn được nghe nói các chùa ở miền Bắc, tượng Phật được vứt ngổn ngang trong xó trông rất dơ bẩn. Tượng nào bằng đồng, cán bộ cộng sản đem đúc vũ khí súng, đạn. 

Lúc bà kể tôi cũng có mặt. Ngài làm thinh không đề cập gì đến chuyện này và bảo bà, thời này nên tu hành sửa tánh. Khi bà ta đảnh lễ Ngài ra về tôi thấy Ngài đứng lên sửa soạn y áo chỉnh tề, đốt bảy cây nhang trầm cắm trên bàn Tam Thế. Bảy cây nhang biện minh cho bảy báu quyền lực siêu đẳng bất nhường của Chư Phật mười phương.

Ngài chứng minh cho thời Mạt Pháp, các pháp ngỗ nghịch tận cùng của chúng sinh gọi là tận thế. Chúng sinh dùng hai bàn tay và trí tuệ làm nên sự nghiệp không tin có Phật thì không có linh ứng là đúng với họ. Hành động thách thức Chư Phật, Thánh, Thần, các vị cũng hỷ xả chẳng chấp, nhưng trồng cam chăm sóc, vun xới ra cây cam, trái cam ngon ngọt. Trồng ớt chăm sóc ra trái ớt cay là như thế, không thể đổ lỗi cho ai, tại sao?

Hàng động, lời nói, ý nghĩ của mỗi chúng sinh qua rồi ai cũng tưởng nó không còn nữa. Đối với Thiền sư hiểu rõ nó không hề mất một ly. Nó cất giữ hành động, lời nói, ý nghĩ của mỗi chúng sinh trong từng ô của Như Lai tạng, đến thời điểm nó như nhiên trả lại cho chúng sinh. Mới đây khoa học cũng khám phá ra, họ bảo lời nói, hành động của con người không mất, nó chạy vòng trong không gian của vũ trụ.

Những năm sau đó, báo chí Hà Nội không dấu hết được, thỉnh thoảng đăng tin: Miền Bắc Việt nam liên tiếp đương đầu với các trận thiên tai, bão tố, lũ lụt được mô tả là hung hãn nhất thế kỷ, thiên nhiên cay nghiệt nhất thế kỷ đã tàn phá dữ dội chưa từng thấy trong lịch sử phát triển và tồn tại của người dân Việt Nam, gây mất mát nặng nề về vật chất cho miền Bắc, đặc biệt kéo theo sự tổn thương nặng nề về tinh thần làm họ rất lo lắng, hãi hùng.

Có khi báo đăng: Thiên nhiên không ưu đãi ta. Ta phải cảnh giác phòng bão chống bão. Dưới mắt Thiền sư phòng tránh thì được còn chống sao được? Mười năm sau, tôi còn nhớ năm ấy là năm 1989, một buổi sáng đẹp trời Ngài bảo tôi nghe như vầy: “Bây giờ thiên hạ họ tin Phật, đi chùa trở lại đông lắm.”

Chính chúng sinh, tánh càng xấu, càng độc nhiễm, không hấp thu được nguyên tinh là chất sống trong vũ trụ rất cần thiết. Tuổi thọ của con người bị giảm đi. Nếu để yên, tánh xấu mỗi lúc một tăng, tuổi thọ của loài người giảm cho đến khi còn 10 tuổi là một kiếp, do đó Chư Phật phải cứu một cách kín nhiệm cho họ lìa bỏ độc nhiễm. Tánh con người tốt sẽ hấp thụ nhiều nguyên tinh, tuổi thọ tăng dần trở lại. 

Chánh giác là bậc đã làm chủ con đường sanh tử, đã trở thành bất tử nó thuộc con đường Phật Thừa Tối Thượng. Bậc này không ghét cũng chẳng thương, không thiện cũng chẳng ác. Bậc này thường diệu dụng đem cái tốt, cái siêu thiện tuyệt mỹ cho chúng sinh là đủ. Bậc Thánh Hiền ở vị trí giác chân lý chỉ là học trò, không đủ sức thực hiện nổi nên dù cho có ở một bên cũng không thấu hiểu việc tận độ chúng sinh của Chư-Phật, Như-Lai, Thượng-Đế được.

• Tiếng rên rỉ thành oán khí xông khắp Trời xanh Đức Di Lạc ra tay tận độ

Ai là người dân Việt dù ở thành phố hay chốn thôn quê, có cuộc sống quen tập tục cha ông để lại, mà nghe nói bỏ xứ sở đi đến một nơi rừng núi âm u, nước độc là không gì sợ hãi bằng!     

Nói đến chương trình kinh tế mới của miền Bắc áp đặt lên dân miền Nam, đến nay ai nghe qua đều phải bỏ chạy. Thật vậy tình hình kinh tế, đời sống miền Nam Việt Nam đang ổn định, đến năm 1975 cho đến nhiều năm về sau khi Cộng Sản miền Bắc chiếm được miền Nam, thực hiện theo chế độ vô sản của Liên Xô đã làm cho miền Nam mau chóng suy đồi, kiệt quệ. Từ nhà nhà cho đến xã hội, bỗng tiêu điều buồn bã một cách dị thường. 

Người dân bị cưỡng bức đi kinh tế mới, rừng chưa được khai phá, đường sá đi lại chưa mở, nếu có cũng đường đất, đến mùa mưa đi lại quá khó khăn, xe đò lưu thông rất hạn chế. Khí hậu độc, nước cũng độc, gia đình nào bị đi kinh tế mới cũng đều có người bị bệnh sốt rét, chứng bệnh hiểm nghèo này ở các quốc gia chậm tiến như Việt Nam không đủ thuốc men chữa trị lành bệnh được. Thuốc nội địa không đủ mạnh để cứu chữa. Hầu như ai mắc phải căn bệnh này trong vùng kinh tế mới đều bị chết.

Nhà nước Cộng Sản phân loại: Gia đình chế độ cũ có người đi quân đội, công chức, gia đình buôn bán lớn cũng như nhỏ, miền Nam có khối gia đình thuộc dạng này, gia đình thuộc dạng tư sản, gia đình trí thức không dùng được. Tất cả thành phần này đều phải đi kinh tế mới theo lệnh cưỡng chế.

Chính quyền Cộng Sản lúc bấy giờ đã có kế hoạch đưa gia đình cán bộ ngoài Bắc vào trám chỗ trống những nhà miền Nam để xây dựng những thành phố đại kỷ nghệ theo quỹ đạo của Cộng Sản Liên Xô. Những gia đình bị đi kinh tế mới chỉ một, hai năm trồng trọt thất bại bị đói họ chạy về thành phố vì không còn nhà nên sống lang thang các vỉa hè khắp thành phố các tỉnh miền Nam. 

Trước nổi kêu thống khổ của người dân Ngài ái hoài, ai có khả năng cũng đều lo chạy đi vượt biển. Số còn lại vô phương phải bị đi kinh tế mới. Tâm lý chung của thời này, hễ nghe nói đến tên gia đình nào bị bắt buộc đi kinh tế mới họ xem như là một đại họa, thà chết vượt biển chớ cùng đường phải bị đi kinh tế mới. Ai đi không lọt ruổi bị sa lưới về là bị tịch thu nhà, tài sản, và còn lại một con đường bị đưa đi kinh tế mới.

Lại một hôm, có một gia đình là chân tử Pháp Tạng tu theo Ngài từ trước 1975 chạy về kêu cứu và thưa với Đức Tịnh Vương rằng: xóm nhà đường Tân Trang thuộc bên hông chợ đầm Nha Trang, đang bị công an và du kích địa phương đến dỡ nhà gần 100 gia đình, đem xe chở bắt buộc phải đi kinh tế mới. Ngày mai họ sẽ dỡ bỏ nhà người chân tử của Ngài. Ngài ngồi bán già, trong tư thế Chánh Định ở Tịnh Thất số 42 đường Hồng Bàng Nha Trang.


Sáng ngày hôm sau, công an và du kích địa phương đến chuẩn bị vô dỡ nhà tiếp, bỗng ông Lê Duẩn, người lãnh đạo số một của Cộng Sản Việt Nam từ Hà Nội vừa vào thăm thành phố Nha Trang ông đi ngang qua khu chợ Đầm, chợt thấy đồ đạc ngổn ngang, dân thì ngồi khóc, ông Lê Duẩn mới hỏi chuyện gì mà khóc. Sau khi nghe dân kể, ông quay lại la ông Tỉnh Ủy “–"Mấy chú làm ăn cái gì lạ vậy, nhà chưa cất, chưa chuẩn bị gì mà bắt người ta lên đó cho chết hả." La rầy xong ông bảo: “"Thôi ngưng đừng đưa đi kinh tế mới kiểu này nữa.”"  

Thế là những người ngồi khóc họ reo hò, vui mừng chạy vào dựng nhà lại khỏi đi kinh tế mới. Nhà người chân tử Ngài cũng được yên. Sau vụ hóa giải này Ngài theo dõi, chờ xem chính quyền có thay đổi kế hoạch không, nhưng sau đó tình hình chung cả miền Nam vẫn tiếp tục bị cưỡng bức đi kinh tế mới.

Ngài nhập chánh định yêu cầu Chư Thiên cứu độ người dân miền Nam xong Ngài xả Chánh Định. Năm 1977 toàn nước Việt Nam bị hạn hán, mùa màng bị hư hại chết khô vì thiếu nước, chỗ nào còn nước thì rầy tàn phá cũng khá nặng nề, lương thực dự trữ cũng bị cạn. Đến năm 1978 hạn hán kéo dài, dân cả nước bị đói, người dân kinh tế mới ăn cả củ chuối để sống qua ngày. Đến lúc củ chuối cũng không còn, họ ăn lá cây. Đói quá họ chạy đến các cơ quan của nhà nước ở kinh tế mới xin cán bộ giúp cho gạo để sống đỡ nhưng tất cả gạo, ngô, khoai đều không còn.

Lúc bấy giờ người đảng viên Cộng Sản không kiềm chế và quản lý ngươi dân được nữa. Tất cả đều tháo chạy về thành phố, ở đầy các vỉa hè dọc đường phố, hình dáng, áo quần rách rưới lang thang. Tỉnh nào cũng đầy người ở kinh tế mới bị nạn đói chạy về sống ở vỉa hè đường phố. Còn nhà của dân khi bị bắt đi kinh tế mới số đông đã bán rẻ như cho không những người cán bộ. Chỉ cần một hay hai chỉ vàng là mua được một căn nhà, thậm chí có nhiều nơi người dân chỉ lấy tôn, cây, còn cả cái giàn nhà vách gạch xây bỏ trống, chỉ xin phường, khóm là có nhà rất dễ dàng.

Tiếng oán than của người dân lan tràn, họ chạy vào chùa cầu xin, lễ Phật trở lại như trước rất đông. Ở thế bắt buộc không sao tiếp tục cưỡng bức người đi kinh tế mới, cộng sản phải cho ngưng chương trình này. Dân cũng giảm cường độ chạy đi vượt biển. Ngày nay người dân miền Nam được sống yên ổn ở thành phố, không phải bị đi kinh tế mới đều do lòng Đại Bi thương xót chúng sinh mà Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc đã ra tay nâng đỡ Đạo Đời.

Nếu Chư Thiên, Long Thần Hộ Pháp không ra tay, để đến khi hàng triệu người chết ở rừng sâu nước độc mà Nhà Nước thấy cái sai, sửa sai thử hỏi còn mấy ai sống được? Như cái gương sờ sờ trước mắt Tây Bá Lợi Á của Cộng Sản Liên Xô, cả triệu người chết, gia đình đau khổ, ly tan không một chút động tâm sao gọi là cách mạng được./-