-“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ . BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

15/2/11

12. Hịch CMVT, phần 3


♦ Đức Di Lạc hoá giải độc nhiễm 




◊ Quốc Vương. Vua được lưu truyền theo cha truyền con nối.

 Dân Vương. Vua do dân bầu cử lên.

◊ Chủ Vương. Vua ở cõi Thiên, phần nhiều những vị này có tài, còn được gọi là Minh Vương. Dân sống sung túc.

◊ Quyền Vương. Vua ở cõi Tiên còn được gọi là Tiên Chủ, có thần thông tài phép cao hơn các vị Tiên khác, nên rất được kính nể. Dân sống đầy của báu có sẵn khắp nơi.

◊ Chủ Thủ Vương. Vua của Địa Ngục, dụng ba đường ác để trị dân. Nếu ai dám nói thẳng nói thật để xây dựng liền bị đầy ải hoặc thủ tiêu.

◊ Cõi Trời. Vua cõi Trời gọi là Phạm Vương. Có cõi Trời gọi là Đế Thích, có cõi Trời vua gọi là Tự Tại Thiên. Dân sống ở cõi Trời được sung sướng.

 Cõi Rồng. Cõi vô hình, thân tướng trên đỉnh hiện đầu rồng, tánh thường tức giận.

Quả địa cầu của chúng ta chỉ là một thế giới nhỏ bé so với vũ trụ bao la có vô số thế giới. Dưới mắt Thiền Sư nhìn qua Nhãn Tạng, biết còn có rất nhiều chủng loài khác, lối sống cao hơn hoặc thấp thua loài người.

Còn loài người trên thế gian này giữa thời Hạ Lai Mạt Kiếp bị trị dưới hình thể muôn mặt. Riêng tại Việt Nam, một thể hiện Đức Di Lạc đã chứng kiến tường tận. Từ năm 1975 đến 1989, một thời gian 14 năm dài, tinh thần người dân miền Nam Việt Nam sống trong nỗi lo âu, một màn đen tang tóc bao trùm cho tất cả các giai cấp từ thành thị đến thôn quê. Điểm tựa của sự sống đã toàn phần đảo lộn. Nhu cầu về sự sống thường ngày cũng thiếu thốn quá mức chịu đựng, nó tuột dốc dần và hầu như tê liệt. Cuộc diện miền Nam như chiếc xe bị đứt thắng, đang lao nhanh xuống vực thẳm.

Trong nhiều đợt Cộng Sản miền Bắc Việt Nam thực hiện con đường vô sản của Liên Xô, đã càn quét người Tư Sản, Tư Sản Mại Bản, Tư Sản Trí Thức ở miền Nam đến tận gốc rễ. Trong số có biết bao gia đình không theo chế độ cũ, cũng bị chung số phận tan thương! 

Chương trình kinh tế mới Cộng Sản Miền Bắc áp đặt cho dân miền Nam, đã gây tai họa là tỉnh nào cũng có vô số gia đình sống lang thang không nhà ở các hè phố, hàng ngày không có ăn, áo quần rách rưới, mặt mày tèm hem, cuộc đời người không giống người! Ở kinh tế mới, núi rừng âm u, khí hậu độc, người dân thành phố không quen lam lũ, họ chỉ quen làm các ngành nghề và mua bán, do đó sản xuất lương thực không đủ sống, lòng oán than khôn xiết! Khi người dân kinh tế mới có bệnh, không đủ thuốc men, đặc biệt bệnh sốt rét làm gia đình nào cũng có người chết. Thuốc dân tộc không đủ sức trị bệnh sốt hiểm nghèo làm cho số còn lại bỏ canh tác chạy! Dù biết rằng nhà ở thành phố không còn, họ vẫn chạy về và không biết ngày mai sẽ ra sao! 

Chế độ Cộng Sản miền Bắc vững tin ở vô sản nên xúc tiến nhanh và mạnh đến nỗi người yếu đuối bệnh tật, người trí cho đến kẻ xuẩn, ai ai cũng chạy theo phong trào vượt biển, trốn khỏi đất nước, nơi quê cha đất tổ đã từng nuôi dưỡng và trưởng thành. Họ chạy đi không bao giờ nghĩ quay lại, dù biết ra đi chỉ có một tia hy vọng mong manh đưa họ đến nơi an lành!

Khi Lenin chiến thắng Nga Hoàng, đã đem một triệu quân của Nga Hoàng lên Tây Bá Lợi Á để xây dựng thành phố xứ tuyết băng quanh năm. Kết quả chỉ còn sống có 5000 người sau khi hoàn thành việc xây dựng thành phố này. Đó là kết quả của cưỡng bức lao động mà không cho ăn uống đầy đủ, bệnh hoạn không thuốc men, lạnh giá không cấp phát áo quần, chăn mền để sưởi ấm thân thể. 

Tuy Việt Nam không có thành phố Tây Bá Lợi Á như ở Liên Xô nhưng những chỉ đạo của người Cộng Sản Nga còn tinh vi, còn có nhiều kỹ thuật trị dân miền Nam rất cao siêu. Lương thực chính của người dân là gạo cùng các nhu yếu phẩm khác đều do nhà nước quản lý, khắp nơi chỉ còn các hợp tác xã. Tất cả các mặt hàng thông dụng hàng ngày đều trở thành quốc cấm. Người dân miền Nam lúc bấy giờ mới chứng kiến cảnh sống bế tắc, cơ hàn cùng cực.
  


  
 Thời này, người ta cho con chó một khúc
 xương nó gặm, hôm sau gặp lại nó còn
 biết vãy đuôi mừng, còn con người nếu có
 ai cho miếng thịt, ăn xong họ liền cắt cái
 túi rồi theo về tới nhà xô đuổi  người này
 và cả nhà ra ngoài đường nữa. Loại người
 ác này thua con chó.
  


Di Như  
  


Chính Đức Tịnh Vương Nhất Tôn hóa thân Đức Di Lạc đã cảm thông cảnh sống của người dân miền Nam đồng thời Ngài cũng cho tất cả biết thời mạt kiếp phải diễn trong miền Nam như vậy.


  HÃY ĐẾN ĐÂY XEM

Cõi nào hãy đến đến đây xem,
Nếp sống nhân gian thấy đã thèm,
Chạy vạy đói no từng chén gạo,
Lang thang rách rưới quá tèm hem, 
Ngày đêm lặng lẽ trong cơ cực,
Năm tháng thâu canh, chí chán hèn,
Có phải cuối đời, thời mạt kiếp,
Thế này diễn mãi, chắc rồi quen.



–TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
Nạn đói năm Mậu Ngọ
22-10-1978


Cứ mỗi thời một diễn cảnh, nhưng thời Hạ Lai Mạt Kiếp cái ác diễn hành cực mạnh để con người thức tỉnh, hối hận “Đứng núi này trông núi nọ.”

Chánh pháp lưu truyền đến đời Ngũ Tổ ở Trung Hoa đã có Thần Tú bày lối tu hành dưới hình thức cúng lễ làm mê hoặc chúng sinh. Họ cũng làm đạo nhưng lại đem con người lầm lạc làm mất phương hướng tu theo Tri Kiến Giải Thoát, dần dần con người sùng bái linh thiêng không tu theo chơn tánh. Một yếu điểm khác nữa, thời Mạt Kiếp tôn sùng vật chất quá mức, chỉ biết có vật chất nên con người vừa gặp cảnh khó khăn trắc trở liền mất hết tinh thần đạo đức, lại chạy theo diễn cảnh tham vọng, thích vọng. Con đường tu cũng vì đó mà mất nên bị thất chơn truyền là lẽ đương nhiên, có người còn ngơ ngác than thân trách phận, trách đời.

Trái lại bậc tu có căn cơ mới thấu đáo chốn Hạ Lai Đồng Độ đầy mầu nhiệm, họ vẫn tinh tấn tu không ngừng nghỉ vì họ thừa biết là cuối thời thiên địa. Luật tuần hoàn của vũ trụ không bao giờ dừng, một khi đến chỗ tận cùng của vạn pháp gọi là tận thế, như nhiên nó chuyển sang một giai đoạn mới để Chánh Pháp hiện hình. Chính Đức Di Lạc, Ngài biết tường tận không thiếu sót nên vẫn bình thản mật cảm mười phương Chư Phật giao cảm cùng Ngài trong giờ phút thiêng liêng, tàn canh của Đại Thiên Địa sẽ chuyển mình đến hoàn lai êm đẹp trong sáng.

Thời chân lý Thực Tiễn hiện tại đã đến, Pháp Độ Đồng Độ của Đức Đông Độ Hiện Giác Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đã ra đời! Cõi Hiện Giác này, nay lại trống vắng những người con thân yêu do thảm cảnh, đến nỗi Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc phải ái hoài trong ngày Đại Lễ 30 tháng 9. 


ĐẠI LỄ ĐÔNG ĐỘ DƯỢC SƯ. ÁI HOÀI

Hôm nay Đại Lễ Dược Sư,
Ba mươi tháng chín chứng từ Pháp thân.
Vài Tín Chúng xếp chân qùi gối,
Một Nhà Sư thầm trối hương đăng,
Tượng Chí Tôn chẳng nói không năng,
Hương trầm tỏa bay giăng đất Thánh.
Ngoài cổng chùa chung quanh vắng lạnh,
Có đôi con chó nhỏ chạy lung lăng.
Cảnh nầy ai thấu chăng ai?
Vắng bóng Chư Tăng dạ ái hoài,
Mật cảm trầm tư hồn viễn xứ, 
Diễn tuồng hạ kiếp đến hoàn lai.



–TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
30 tháng 9 năm Mậu Ngọ
31-10-1978


Cảnh vật ở miền Nam sau 1975 tiêu điều, tinh thần người dân buồn khổ, một màu đen ảm đạm, tang tóc bao trùm, đâu đâu cũng nghe tiếng khóc than não ruột. Dưới mắt Thiền Sư khi xuất định đã gặp dưới lớp mây trên không, một lớp khí lạnh buốt rợn người, bàn bạc khắp nơi. Họ liền biết tiếng ai oán ta thán của dân chúng xông lên. Cửa ngục trần gian phất đến nỗi chư Thiên phải hoảng sợ.

Ngày 20 tháng 2 âm lịch năm 1979 dương lịch Công An thành phố Nha Trang hạ bảng: PHÁP TẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM, TRUNG ƯƠNG HỘI THƯỢNG.

Kèm theo lệnh cấm tu hành, cấm thuyết pháp, cấm tập họp. Công an đã “quần” Ngài từ năm 1976. Lý do Ngài không vào theo Phật Giáo Thống Nhất do Nhà Nước áp đặt từ việc cỏn con của sự tu hành. Tự do dân chủ không còn nữa.

Ở cõi Địa ngục, chỉ cần một đứa bé ghét ông già, nó ghi một câu độc bỏ vào cơ quan an ninh, ông già bị giết. Nó ghi nhẹ một chút, ông già bị ở tù ba, bốn năm là chuyện thường.

Một hôm vào buổi sáng Ngài bảo, tôi nghe như vầy: 

“Ông nghĩ xem nếu vào khối Phật Giáo của Nhà Nước, mỗi khi thuyết pháp Tôi phải viết bài sẵn trình cho vị Tăng của Tỉnh! Tôi phải đi làm kế hoạch sanh đẻ. Việc này phải do y tế mới phải!” 

Công An kiểm kê số 42 Hồng Bàng, nơi Ngài đang ở, ý định tịch thu Chùa này và làm dữ, siết đủ ngõ ngách nhưng Ngài vẫn ôn tồn dùng Vi Diệu Pháp nên đều qua nạn tai rất nhiều đợt và tránh được cải tạo lần nữa. 

Chư Thiên liền Hội Tề thảo luận, Thập Bát La Hán cùng nghiêm túc thảo luận. Chư Long Thần, Địa Thần, Tứ Bộ Thần tề tựu dày đặc quanh Ngài. Dưới mắt Thiền Sư đều nghe rõ, biết tường tận “Giặc đánh Bồ Đề giặc phải tan”./-