-“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ . BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

15/2/11

13. Hịch CMVT, phần 4


♦ Bất Chiến Tự Nhiên Thành.

Từ căn gác gỗ của Ngài đường Núi-
 Một nhìn ra nóc nhà hàng xóm.
Tại căn gác gỗ nhỏ nơi Tịnh Thất Đức Tịnh Vương Nhất Tôn hóa thân Đức Di Lạc, tôi nghe Ngài khai thị như vầy:

“Nhìn Cộng Sản Việt Nam biết được Liên Xô. Tất cả đều do Liên Xô mà ra. Đánh rắn Tôi phải đập đầu, Tôi không đập khúc giữa, khúc đuôi. Nhưng Tôi không đập, vì Tôi đập nó sẽ tan tành nát bấy như tương. Nếu Tôi dùng cái roi Thần Thông đập thì không một con rắn hổ hung hãn nào trên quả địa cầu này chịu nổi, dù chung quanh nó có cả tỷ giòng họ chứa đầy vũ khí tối tân của thời Hạ Lai Mạt Kiếp này. Tất cả đối với Tôi không thấm vào đâu. Tôi chỉ dùng cái roi THẦN THÔNG nhịp nhịp nó cũng tê liệt và rã từng mảnh để răn dạy đứa con NGỖ NGHỊCH.” 

Nhìn hiện tình, thể chế chính trị của Cộng Sản Liên Xô và các nước Cộng Sản Đông Âu vững chải như thành đồng, bỗng trở mình sụp đổ nhanh chóng, rã thành từng nước Cộng Hòa sống theo tự do mà không gây đổ máu cho bên này hoặc bên kia, cũng không có cảnh chết chóc như chiến tranh, cũng không có cảnh chiến thắng uống máu quân thù. Thế giới tự do không phải tốn một viên đạn. Đối với thế gian không hề biết là đã có một bàn tay vô hình của Chư Phật đem phép màu đến cho nhân loại, tránh nạn Đệ Tam Thế Chiến. Nạn tận thế đã qua! Các nước Cộng Sản còn lại lo đổi mới y theo lệnh của HỊCH đã chứng minh. Ngài đã dụng Thần Thông Tam Muội. Nhãn Tạng Tam Muội Định. Nhĩ Viễn Minh sắp bàn cờ thế “BẤT CHIẾN TỰ NHIÊN THÀNH” đã ban tình thương cho nhân loại sống lại với mùa xuân ấm áp, đượm tình nồng ấm.
Tượng Lênin bị kéo sập sau 
 khi Liên Xô sụp đổ.


Hai câu thơ do Đức Tịnh Vương đọc để lưu lại đời, nhắn nhủ các Lãnh Tụ không phải chỉ bàn tay con người làm ra mà hiếp đáp kẻ khốn cùng, kẻ thất bại cô thế là đồng bào ruột thịt của mình, cùng chung trong một non sông gấm vóc. Quỹ đạo bị lệch Ngài đã âm thầm điều chỉnh lại:

“Quan Âm không thể bắt cầu
Ngón tay Ta chỉ Chư Hầu đều vâng” 
 –Tịnh Vương

Quán Thế Âm Bồ Tát phải lắc đầu cái thời Mạt Kiếp này còn chư hầu là các lãnh tụ trên thế giới không thấy bàn tay Chư Phật ở đâu cũng phải xuôi dòng. Rõ ràng ác trược, phiền não trược đã trở thành TỊNH ĐỘ QUỐC ĐỘ AN LẠC.

Ngày nay nhờ chương trình đổi mới mà dân chúng có đời sống thong thả hơn, lớp “Người của Nhà Nước Cộng Sản” cũng có cơ hội được quyền sống cuộc đời sung túc, muốn ăn, muốn mặc sang đều được thoải mái, dễ dãi, lại có quyền “tư duy mới là Tư Sản”

Với lòng Đại Bi, Đại Lực, Đại Hùng, Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc đã mang lại tình thương, thể hiện bằng hành động thực tiễn, không hề có một ý nghĩ phân biệt người bên này hay người bên kia, mặc dù Ngài thường bị công an thành phố Nha Trang chờ cơ hội bắt. Ngài vẫn kiên trì vận dụng "Nhất Thiết Thần Thông Tam Muội", nhập Tam Muội này, Ngài có thể trung hòa tất cả pháp bất ổn xâm nhập thân. Do vậy, cạnh cái ác, cái quái đản cũng có cái thiện khác gìn giữ kính nể Ngài.

Thật vậy, Đức Tịnh Vương Nhất Tôn hóa thân Đức Di Lạc đã kín nhiệm thệ nguyện dùng Hạnh Thế Gian Giải không thể nghĩ bàn, để đưa chúng sinh từ nơi thế giới độc nhiễm lại quá hung hăng, đặng vào nơi an lạc, làm cho họ không hề hay biết. Còn thế giới tự do cũng tưởng lầm rằng chính họ đã điều khiển hay điều động nên ngày nay mới có hòa bình.

Tất cả sự tốt đẹp an lành duy chỉ có THIỆN NGUYỆN THẦN THÔNG TAM MUỘI do Ngài Diệu Dụng để đưa thế giới của thời đại nguyên tử, quá ư cuồng loạn làm cho biến thành Tịnh Độ, không còn hai khối đe dọa tiêu diệt nhau. Nay đã sống chung hòa bình thật vi diệu. Ai cũng phải thừa nhận rằng, ngày nay các quốc gia trên thế giới đã chung sức hợp tác với nhau ổn định hơn lúc nào hết, nếu đem so với cường độ kình chống nhau sau thế chiến thứ hai tức năm 1945 đến 1954 đến 1989 nhân loại tưởng chừng như đã đến ngày tàn tận thế.

Y-Vân-Điền
 
Ngài mặc hành lễ 
Bậc Chánh Giác thâm nhập đến thành quả THẦN THÔNG ĐẠI QUANG TAM MUỘI có thừa năng lực tùy tiện phân thân biến hóa vô số VI TRẦN PHẬT, SÁT NA PHẬT đưa tâm thức rời khỏi xác thân, nhập vào vô số dạng sống khác, bao lâu cũng được nếu thấy cần thiết. Sau trả chúng sanh đó về tinh thần vị trí cũ mà chúng sinh không hề hay biết, mục đích để đem lại mức sống thoải mái không có sự ép buộc đè ép nhau cho tứ loài. Quyền lực Tối Thượng này còn có vô số Chư Bồ Tát, Hộ Pháp Tiên Thần của thể vô hình thời qúa khứ, hiện tại ứng trực nguyện nữa.

Thế nên một số chúng sinh ở quả địa cầu của chúng ta, dựa vào sức mạnh của con người đồng chí hướng với mình, tạo được uy quyền cai trị thiên hạ, cho mình là vĩ đại dể tập khởi ác, thọ chấp ác nên Chư Phật sống ẩn mình không hiện thân tướng cho biết để gặp gỡ. Vì sao? Vì chúng sinh bổn lai ác, tâm tánh không chừng đổi, nếu bộc phát trước bậc Chánh Giác thật tai hại vô số kể cho họ và cho lớp người cùng chung chí hướng với họ nữa. Tất cả đều do đức độ đầy quyền lực Tối Thượng của Bậc này tự phản ảnh!

Quyền lực của Bậc Chánh Giác chính là quyền lực của vũ trụ còn được gọi là Thượng Đế hay Như Lai. Cứ nhìn sức con người xây dựng bao công trình kiên cố, chỉ cần một trận cuồng phong bão tố bị tan tành hết. Chỉ một cơn động đất bị sập đổ hết hay chỉ cần một cuộc đổi thay thời tiết, tất cả chúng sinh bị tê liệt. Ngài quán xuyến trùm khắp nhập chánh định, xuất chánh định tam muội hóa giải đã đem lại an lành không thể nghĩ bàn. Khoa học văn minh hiện đại ngày nay đều bó tay trước nạn động đất và bão tố trên địa cầu. Riêng Thiền Sư hóa giải để không có bão tố và không có động đất xảy ra là chuyện thường. Lời nói này rất chân thật.

Ở Nha Trang nhiều năm, thỉnh thoảng đài khí tượng loan tin bão sắp tới, Ngài đều nhập chánh định Tam Muội vận chuyển Pháp Thiên hóa giải, mỗi lần như vậy bảo di chuyển ra biển khơi tan biến và Nha Trang được an lành. Có lần sắp có động đất nguy hiểm đến dân chúng, Ngài biết trước vận chuyển Đại Địa giải quyết không để gây thiệt hại cho dân chúng. Ngài đâu cần nói với ai chỉ học trò thân thiết với Ngài biết. Thật tuyệt mỹ, bậc đoạt Diệu Quả Bồ Đề như Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc, tận độ chúng sinh thời Mạt Kiếp mà đã biết cần phải thân khẩu ý kín nhiệm mới hạnh nguyện thành quả. Một hôm Ngài dạy:

“Tôi đâu cần cầu danh, hiện thần thông phép lạ Ma Vương sẽ tìm đủ hình thưc giết. Việc khai đạo sẽ bị dang dở.” 

Hàng Thánh Hiền hấp tấp diễn thần thông do tu hành tạo công năng công đức mà có, nếu chưa có tài đức chưa có đủ trí huệ dễ bị hại. Bậc Vô Thượng Đẳng Chánh Giác, bậc Thánh không sánh kịp, cũng không có ai hơn được. Bậc này từ trong Chánh Định Tam Muội tận thấu tất cả vạn pháp, làm cho không có một kẻ hở nên không có cảnh bị giết như Thánh Hiền tuy có trí huệ, có thần thông nhưng chẳng được đầy đủ.

Hàng Thánh Hiền tuy thông đạo, dạy cho chúng sinh tỏ đạo nhưng còn chưa đủ Mắt-Tai minh sát để vận chuyển Như Lai Tạng nên không giải quyết được một việc gì đầy đủ về Hạnh Thế Gian Giải cho nhân sinh và cho tất cả tứ loài.

Như tôi sống ở Sàigòn đến nay đã được trên 15 năm, thỉnh thoảng vài năm có một lần đài khí tượng loan báo sắp có bão. Có một lần cuối năm 1992 Đài truyền hình thành phố Sàigòn cứ 20 phút báo tin khẩn cấp một lần, bão với tốc độ 250 km/giờ sẽ vào Sàigòn 12 giờ nữa. Mỗi lần tôi đều báo trước cho những chân tử của tôi là tôi sẽ hành dụng Thiên Pháp làm tan bão và quay trở lại biển Đông rồi biến mất. Chân tử của tôi đều nghe và chứng kiến mỗi lần như vậy đến giờ trời vẫn yên lặng, bầu trời trong xanh như ngày thường và không hề có bão đến.

Thiên hạ đựơc tin lo phòng chống bão họ nói đài khí tượng Sàigòn dỏm, chớ họ đâu có thể hiểu nổi giờ phút đó tôi đã hóa giải cho Sàigòn và các vùng phụ cận được an lành. 

Vậy mà dạy đạo giác ngộ cho chân tử, tôi phải trốn chui trốn nhủi, phân tán học trò từng nhóm nhỏ. Còn Đức Tịnh Vương và tôi chỉ một sơ hở là địa ngục môn chờ sẵn! Ngài đã từng than “Tạo đạo đức cho đời mà có tội, nghĩ cũng cay nghiệt!” 

Khi người Việt Nam gặp nhiều nỗi truân chuyên, họ đua nhau vượt biển, thư từ, điện tín của thân nhân còn ở trong nước là món ăn tinh thần cần thiết nhất. Nhà nước tỉnh Khánh Hòa và nhiều nơi khác tịch thu hết thư từ, gom lại kiểm tra và không cấp phát cho dân. Ai cũng nóng ruột, họ bỏ ăn, bỏ ngủ ngày đêm than thở không biết thân nhân mình đi vượt biển sống chết ra sao? Chính Đức Ngài cũng bị chung số phận. Khoảng 6 tháng liền Ngài mới nói: thư từ, tin tức là cái quyền sống thiêng liêng cao cả của con người không một nước nào trên thế giới này làm cái chuyện quá ác như vậy. Người ta có thể nhịn ăn xác thân tiều tụy chớ mất tinh thần con người sẽ điên và chết. Ngài than và Chư Thiên hội tề giải quyết.

Một cơn bão đã đến tỉnh Khánh Hòa làm thiệt hại mùa màng và đường sá, cầu cống, điện nước bị hư hỏng nặng. Chính quyền tỉnh bị thiếu ngân quỹ, vội vàng cho đem thơ, điện tín của thân nhân ở nước ngoài ra phát và tính thêm tiền phụ thu trên mỗi lá thư. Các nơi khác cùng bắt đầu phát thư theo, từ đó về sau không thấy thư của dân gởi về bị tịch thu nữa. 

Đó là lối cuối cùng Chư Thiên chỉ giải quyết nhẹ thôi, nếu gió mạnh với tốc độ 200-250km/giờ chắc còn dữ dội hơn, mưa to gío lớn chừng vài ba ngày ắt bị tàn phá dữ dội hơn. Đấy là nói về Chư Thiên, còn Chư Địa Thần nếu họ nổi giận còn khủng khiếp nhiều và kết quả tai hại thật không lường được! 

Thời Hạ Kiếp này, duyên căn từ bi, bác ái của Thánh Đế, nếu sẵn sàng chịu hy sinh chết thay cho chúng sinh, cũng không đổi thay được tâm ý của các lãnh tụ, vua, chúa đi ba đường ác. Họ không nghe, họ không tu Thiện bậc Thánh Đế cũng đành chịu, thần thông cũng không thắng nổi ma lực. Duyên căn này phải theo thời thế, theo trình độ biến hóa của Ác Căn, khiến Bậc đoạt Diệu Quả Phật như Đức Di Lạc không thể ngồi yên bỏ mặc cho chúng sinh sống trong u minh, trong trầm luân biển khổ được. Ngài phải diệu dụng thần thông Tam Muội để tận độ chúng sinh đồng thời cũng cảm hóa chúng sinh ngổ nghịch. Đó là chân lý Tối Thượng Thừa hàng Thánh Đế không đủ công năng công đức thực hiện được. 







Ngài ban Hịch chứng minh này, Chư Bồ Tát, Chư Hộ Pháp, Chư Thiên, Chư Thần... phải giúp đỡ với một tinh thần bình đẳng những bậc lãnh đạo quốc gia cùng thuộc cấp, giữa thiện và ác được nhận định rõ ràng. Nếu ác căn bậc vô hình ở trong thể Ngài cần làm cho họ Thức Tỉnh mà Hồi Hướng Thiện. Đây là lệnh cho nhân sinh và cho Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới cần sự sống thanh bình, cái quyền sống hồn nhiên thoải mái không được xâm phạm.

Các khoa học gia, các nhà lãnh đạo nên nhớ rằng: mỗi vị Thần, Thiên, Hộ Pháp... vô hình, họ có một quyền lực tự nhiên siêu hình không nghĩ bàn. Trí tuệ các khoa học gia chế tạo bom nguyên tử, bom khinh khí, bom Neutron, bom vi trùng, bom hóa học phải tốn rất nhiều công sức, nếu đem so với một vị Thần không thấm vào đâu. Vì có thực quyền Tối Thượng, lại có sức mạnh vô địch mầu nhiệm nên Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc mới ra lệnh để họ thể hiện tinh thần từ bi tạo công đức tu hành. Những vị Thần họ tôn sùng Chư Phật, Bồ Tát một cách tuyệt đối vì họ rất trọng đạo và quả vị tu chứng. Họ ứng trực bên Ngài đông vô số.

Trong thời Hạ Lai Mạt Kiếp này Đức Di Lạc đã chứng kiến từ năm 1975 cho đến nay người dân bị trị được phép hưởng ân huệ là mọi sinh hoạt thường ngày đều bị quy định quá mức khắt khe như quyền cư trú, "quyền có miệng ăn mà không có miệng nói." Đặc biệt là sự tu hành tạo đạo đức cũng bị quy định và không được phát huy. Trên thực tế tu thực hiện đúng chân lý mới có đạo đức, nếu dễ dàng như ý con người suy nghĩ rồi quy định, sao lịch sử còn ghi chép, qua nhiều triều đại các bậc Thánh Nhân ra đời điều chỉnh và dạy dỗ cho chúng sinh luôn giữ Thiện Căn làm chi?

Kinh sách khai mở Cho chúng sinh tu cầu Tri Kiến Giải Thoát của Đức Ngài trước 1975 chánh quyền cộng sản không cho phổ biến, cũng không cho phép in. Một hôm tứ chúng Sàigòn dùng dụng cụ thủ công in quyển “Giáo Lý Trên Con Đường Giải Thoát” bị tịch thu. Chính quyền làm dữ, mỗi người bị giam 3 năm tù. Thân nhân làm đơn xin mãi 2 năm sau mới được tha. Còn tôi công an bắt và chỉ mặt “Tao cho mày ở tù 10 năm khổ sai cho mày biết mặt.” Đức Ngài phải kêu gọi Long Thần Hộ Pháp giải cho tôi ra khỏi nhà tù lần thứ hai. Lần thứ nhất bị đi cải tạo 42 tháng.

Sau khi quyển kinh bị tịch thu, công an đưa cho Sư của nhà nước đọc. Ban Phật giáo nhà nước đọc không hiểu. Kết luận là tà đạo và chúng tôi bị bắt giam. Còn Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc ở Nha Trang công an thành phố đến bắt, lúc đó Ngài bị mệt và hôn mê đang truyền “nước biển”. Họ ngồi chờ bắt. Long Thần Hộ Pháp canh giữ Ngài đi hóa giải, liền có pháp thuận đến an lành vi diệu nơi Tịnh Thất Ngài. Ngài thoát tù. Sau công an đến canh, hạch hỏi Ngài là chuyện thường như cơm bữa. Có lần họ nói: ông nhớ là tôi bắt giam ông lúc nào cũng được. Kỳ Hạ Lai hành đạo này Đức Di Lạc bị Ma Vương, Quỉ Vương và con cháu của chúng đem Ngài lên dàn hoả nướng lăn qua trở lại rồi cho vào miệng ăn nhưng nóng quá không ăn được, nhiều lần làm như vậy không xong buộc lòng phải thả Ngài. 

Từng ngày qua ngày, Ngài vẫn kiên trì dạy đạo, chừng vài ba chân tử đến một lúc và chia nhau từng đợt. Chân tử các tỉnh Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Sàigòn đều phải theo một tổ chức trật tự như vậy. Do đó ngày nào Ngài cũng khai đạo không hề có một phút ngừng nghỉ. Một hôm có một ông thân hào nhân sĩ đến thăm và hỏi Ngài có ngủ không?

Ngài trả lời: “Ông thấy đó, ban ngày Tôi lo dạy đạo cho Tứ Chúng tu hành, từng nhóm, từng đợt suốt ngày, đêm đến tối Tôi xuất Chánh Định đi các nơi trên địa cầu và các Cõi ngoài địa cầu dạy đạo, chỉ buổi trưa Tôi nằm ngủ một giờ để dưỡng thân cho nó nghỉ khỏe nên tối đến Tôi đâu có giờ nào để ngủ.” 

Đức Ngài tại Trung Ương cùng các Chân Tử 
Thật vậy, Bậc Chánh Giác lúc nào cũng Vô Thượng Đẳng Trí nên ngày cũng như đêm đều tịnh, ngày và đêm tuy hai mà một. Tối và sáng chỉ là một nên không có cái ngủ như ngày thường. Đó là một điều mà khoa học khó tin nhưng có thật.

Còn những ngày đại lễ của Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam, tại Trung Ương Hội Thượng ở Nha Trang, Ngài ngồi bán già nhập chánh định thường xuyên để kêu gọi Long Thần Hộ Pháp đi canh giữ các nơi trong thành phố. Đại diện Hộ Pháp, Tôn Giả cùng Tín Chúng các tỉnh về dự có trên 100 vị. Long Thần Hộ Pháp làm mưa dầm, bầu trời u ám, gió thổi lạnh suốt buổi trước giờ hành lể. Nhà nhà tự động đóng cửa, ngoài đường vắng người, công an, an ninh đi tránh mưa ngủ nghỉ. Trong lúc đó Tứ Chúng Pháp Tạng từ các nẻo đường của thành phố Nha Trang ăn mặc chỉnh tề, đi trong mưa gió về dự đại lễ ở nhà Ngài. Xong tất cả đều trật tự giải tán từng người một ra khỏi nơi hành lễ, không một ai lảng vảng trước cửa nhà Ngài nữa. Nếu có chân tử quên, ban tổ chức liền nhắc nhở. Xong Đại Lễ trời trong, mây tan, mưa tạnh thật mát mẻ thoải mái. Mỗi lần như vậy Chư Thiên, Hộ Pháp Vô Hình, Chư Thần lo bên ngoài. Còn hàng Hộ Pháp Hữu Hình lo mặt tổ chức bên trong không để sơ hở một việc nhỏ. Ai là chân tử Ngài đều tự giác yên lặng, giữ gìn.

Nếu là người Việt Nam thời mạt pháp này đều biết, chùa còn không có người được phép lai vãng huống chi nhà của dân chúng người lạ mặt tập trung chừng 3 người thăm chơi với nhau cũng đều gặp nhiều trắc trở không tả hết được. Bậc nắm quyền quá ư lầm lẫn, tưởng mình khi chết là mất, nào ngờ đồng hợp bị Hoả Ngục treo chịu cực hình. Chỉ có bậc Trí Tuệ Thiền Định thật biết tỉ mỉ. Cứ một kiếp như thế được thai sanh làm người trở lại quá khó.

Ngài từng dạy: Thời Hạ Lai Mạt Pháp này quá khó đắp xây lại nền Chánh Pháp nhưng Ngài vẫn tinh tấn với đầy đủ Vô Thượng Đẳng Trí. Cũng trong khoảng thời gian bức màn lửa bao trùm, rất nhiều bậc tu thấy khó khăn đã vượt biên ra làm đạo ở nước ngoài. Mà thật vậy trí không siêu đẳng cũng không kham làm đạo nổi, ở Việt Nam cũng phải đành bó tay. Ngài dạy chúng tôi, Pháp khó bỏ, dễ làm là còn chọn lựa nếu có thành Phật cũng là Phật Giới tức Bích Chi Phật hay Độc Giác Phật. Quả nhỏ lắm còn thua xa Bồ Tát ở lại kiên dũng vừa tu vừa đời còn có ngày thành Phật với Diệu Quả Bồ Đề, nếu một khi đã vào Phật Giới thật khó thoát ra được. Có nhiều trường hợp ở đến a tăng kỳ kiếp mà cũng không hề hay biết mình đã thọ giới.

Trừ trường hợp bậc này lìa ngã, lìa sở hữu may ra còn có ngày được gặp Bậc Diệu Quả Bồ Đề cứu độ tu hành tiếp.

Thuyền nhân Việt Nam
 Nói chung ở Việt Nam thời bấy giờ về kinh tế, môi trường, văn hóa, giáo dục, chính trị đều bị khủng hoảng. Còn tôn giáo bị bế tắc, tất cả đều bắt nguồn từ Liên Xô. Người dân cũng bị khủng hoảng tinh thần nên ào ạt chạy trốn khỏi nước bằng cách vượt biển. Theo thống kê quốc tế cứ trung bình bốn người ra đi chỉ đến được có một người, còn chết và mất tích ba người. Riêng tại Hoa Kỳ hiện nay có một triệu người Việt sinh sống như vậy đã có gần ba triệu người đã chết giữa biển khơi và đường bộ ở biên giới Cambodge. Đấy là chỉ tính một nước Hoa Kỳ, còn tất cả các nước khác trên thế giới ngày nay hầu như nước nào cũng có người Việt Nam. Số chết và cảnh tượng đau thương, mất mát còn vĩ đại không bút mực tả hết được.

Còn cuộc phân ly Nam Bắc suốt 21 năm thống kê cũng tạm cho khoảng 3.200.000 người Việt bị tử thương, chưa kể thương binh còn sống nhưng bị bất lực cũng là nỗi đau khổ triền miên của họ. Còn biết bao gia đình bị đau khổ nữa.

Lần đầu tiên Ngài ngồi khóc vì thương chúng sinh trong nước, ngoài nước. Các chân tử thấy thế hoảng sợ vội hỏi. Ngài bảo: “Chính quyền miền Bắc đối xử với người miền Nam như người nô lệ.” 

Cùng lúc đó các vị tu Tiên ở núi Thất Sơn thuộc Châu Đốc họ nhận biết được liền báo cho chúng sinh và học trò họ là Phật Di Lạc đang khóc cho chúng sinh thời Hạ Kiếp này. Thật họ cũng giỏi nhưng tu theo Định Tưởng chớ không biết lối tu chân lý thực tiễn nên cũng không gặp Ngài được. Họ chụp hình được, thấy ảnh nhưng không vào được cảnh, không sống trong cảnh nên không tiếp xúc được người trong cảnh cũng như chúng ta thấy được phim ảnh trong tivi nhưng không tiếp xúc được, không đến được nơi để xem và trò chuyện với những nhân vật, cảnh vật thực. 

Nhận định sâu sắc và bình đẳng nghĩa là trước thảm kịch mà Liên Xô đã gieo cho nhân loại nói chung cho dân tộc Việt Nam nói riêng và chính bản thân Đức Ngài, một hôm trước Tam Thế Ngài thắp bảy cây nhang trầm thề nguyện quyết tận độ chúng sinh an lành.

Từ đó Ngài thường xuất định mỗi đêm đi Liên Xô, Hoa Kỳ... cùng với Long Thần Hộ Pháp Vô Hình kêu gọi Địa Thần ở thủ đô Matxcova và các Địa Thần, Thiên Thần đến các nước Đông Âu giúp đỡ, công bằng giúp đỡ. Riêng tại Liên Xô Địa Thần đã tìm và “cấy” cho Ngài một nhân vật có bộ óc “Tư Duy Mới” và có thực quyền để Ngài kín nhiệm xoay chuyển cuộc thế đem đến tự do cho nhân loại. 

Lúc đó tôi còn nhớ rõ Ngài bảo: “Nếu tôi không làm Liên Xô thức tỉnh hồi hướng, thảm họa chiến tranh thứ ba sẽ không tránh được, hậu quả sẽ không lường hết được cho nhân loài và các sinh vật trên quả địa cầu này.”./-