1. Đức Di Lạc là Lạc Long Quân hiện tướng tại Việt Nam, nước Lạc Việt xưa.
◊ Danh hiệu Di Lạc Tôn Phật.
– Di: Di truyền.
– Lạc: Lạc Long Quân, Tổ phụ Hồng Bàng. Lạc Việt, tộc duy nhất còn tồn tại trong Bách Việt xưa, không bị đồng hóa sau cả 1.000 năm đô hộ của Hán tộc.
Đức Vô Thượng Di Lạc Tôn Phật chính là hiện tướng của Lạc Long Quân, tổ phụ Hùng Vương, nay Hạ Sanh tại tộc Lạc Việt đã di truyền xuống phiá Nam.
Hiện Tướng: dành cho chúng sanh có tướng mới thấy. Còn Bồ Tát không tướng vẫn thấy nên gọi là Giác Tướng vậy.
–Di Như Đại Bồ Tát
|
2. Đức Tăng Chủ Tịnh Vương Nhất Tôn, hoá thân Đức Vô Thượng Di Lạc Tôn Phật trở về Hồng Bàng ngàn xưa Khai Đạo.
◊ Đức Tăng Chủ Tịnh Vương Nhất Tôn Đăng Quang Khai Đạo ngày 10 tháng 3 năm Bính Ngọ 1966.
Cùng ngày Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, Đức Tịnh Vương Phật thị hiện kêu gọi Đức Tăng Chủ phải trở về căn nhà Hồng Bàng để Đăng Quang Khai Đạo, đào tạo Thánh Chúng. Lúc đó Đức Tăng Chủ đang ở Sinh Trung. Đức Tăng Chủ chính là Tổ phụ dòng Hồng Bàng.
◊ Khai-Thị pháp "bố thí cho chúng sanh" để trở về Hồng Bàng ngàn xưa.
Căn nhà Hồng Bàng là của chính Đức Ngài mua rồi giao cho cô em, đưa Mẹ Ngài về ở trông coi dùm Ngài. Nhưng khi Ngài quay về thì cô em không chịu đi. Ngược lại cô đòi Ngài phải đưa tiền cô mới đi. Ngài đã mở pháp bố thí đưa 10 lượng vàng để cô mua căn nhà khác mặc dù giá trị căn nhà lúc đó chỉ có 3 lượng.
Qua pháp bố thí lấy lại căn nhà, Đức Ngài tự nghĩ "Ngài là Phật sao lại thua chúng sanh?". Tối đến Ngài đã Nhập Chánh Định để tìm hiểu, Ngài thấy:
–Có một kiếp Ngài là một Đạo Sĩ đang đi hành đạo thì trông thấy một con rắn đang rượt cắn một con rùa. Vị Đạo Sĩ đã dùng một cái que đuổi con rắn đi, rồi cầm con rùa lên để phóng sanh nhưng vô tình con rùa rơi xuống đất bị hư một chân. Con rùa đó chính là mẹ Ngài còn con rắn chính là cô em gái. Vì nhân duyên đó nay gặp lại.
Ngài thường dạy Thầy (Đại Bồ Tát Di Như): –"Tôi phải trở về Hồng Bàng nơi ngàn xưa của tôi." Sự Diệu Dụng chính Ngài là Tổ phụ Hồng Bàng.
3. Phần trích dẫn.
◊ WWW.E-CADAO.COM, Về nước Lạc Việt ngày nay:
Ánh Sáng Mới Trên Một Quá Khứ Lãng Quên
Nguyên tác "New Light on a Forgotten Past" của Tíến Sĩ WILHELM G SOLHEIM II, Giáo Sư Nhân Chủng Học Đại Học Hawaii
National Geographic, Vol. 139, No. 3, tháng 3 năm 1971
Người dịch: HOÀNG-HOA-NHÂN-KIỆT
Khi chúng tôi còn lớp nhì, lớp nhất bậc tiểu học, thầy chúng tôi là một người cách mạng, người đã từng lưu lạc qua Trung-Hoa, đã kể cho chúng tôi một câu chuyện rất lý thú. Từ ngày đó cho đến nay đã gần 50 năm, không lúc nào chúng tôi quên được. Câu chuyện như sau:
Khi cách mạng dân quốc của Trung-Hoa chưa thành công, lãnh tụ Tôn-Dật-Tiên qua cầu viện nước Nhật, tại đây Tôn-Dật-Tiên có gặp ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị (một chính khách Nhật cũng là một nhà mạnh thường quân của cách mạng Việt-Nam), trong câu chuyện hàn huyên, khi đề cập tới Việt-Nam, Tôn-Dật-Tiên đã bĩu môi chê dân tộc Việt-Nam, họ Tôn nói với ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị như sau:
"Dân An-Nam là một dân tộc nô lệ, trước họ nô lệ chúng tôi, nay họ nô lệ người Pháp, họ là một dân tộc có đầu óc nô lệ làm sao giúp họ độc lập được"
Ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị đã cắt lời Tôn-Dật-Tiên như sau:
"Tôi xin được phép ngắt lời ngài ở đây, ngài đã có những nhận xét không đúng về dân tộc đó (dân tộc Việt-Nam: lời người dịch), bây giờ họ thua người Pháp vì họ không có khí giới tối tân chống lại người Pháp, mai sau khi họ có khí giới tối tân họ sẽ đánh bại người Pháp. Ngài nên nhớ rằng dân tộc Lạc Việt này là một chi duy nhất còn lại của Bách Việt đã chống lại sự đồng hóa của người Trung-Hoa giữ nền độc lập của tổ tiên họ trong khi các chi Việt khác như Mân Việt đã bị đồng hóa cả ngàn năm"
Khi nghe tới đây, Tôn-Dật-Tiên đỏ bừng mặt xin lỗi ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị và xin cáo lui. Tôn-Dật-Tiên xấu hổ vì Tôn-Dật-Tiên là người Quảng Đông (Mân Việt). [Hết trích]
4. Sơ lược hành trình Hạ Lai của Đức Vô Thượng Di Lạc Tôn Phật thời Hạ Kiếp.
• Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã thọ ký.
Bồ Tát Di Lạc đã hạ sanh ngày 24 tháng 12 Kỷ Mùi, 1918 tại Bình Định với thế danh là Từ Thế Thọ. Cha là Từ Như Ý, mẹ là Nguyễn Thị Phụng.
• Đắc Vô Thượng Đẳng Chánh Giác 1956, 2500 Phật Lịch.
Hóa thân Đức Tịnh Vương Nhất Tôn chính là Bồ Tát Di Lạc nay Hạ Lai trần thế thời Mạt Pháp, Mạt Kiếp. Nơi hành Đạo: Sinh Trung, Nha Trang.
– Thời kỳ Trừu Tượng: Hóa độ Tiểu Thừa 1957 - 1965.
• Thành lập Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam tại Cõi Ta Bà ngày 12 tháng Giêng Nhâm Dần (16. 2. 1962). Lễ Khai Nguyên Pháp Tạng đầu tiên.
Danh hiệu: Tăng Chủ Tịnh Vương Nhất Tôn.
• Đăng Quang Khai Đạo, đào tạo Thánh Chúng ngày 10 tháng 3 Bính Ngọ, 1966.
Danh hiệu: Long Hoa Tăng Chủ Tịnh Vương Nhất Tôn.
Lập Long Hoa Hội Thượng Thời Hai tại căn nhà số 42 Hồng Bàng, Nha Trang tỉnh Khánh Hòa. Đào tạo Thánh Chúng hàng Đại Thừa. Đã có 1.250 Chân Phật Tử thời Đức Bổn Sư (Long Hoa Hội Thượng Thời Một) quay lại Tu với Đức Ngài.
– Thời kỳ Chân Như: Hóa độ Đại Thừa 1966 - 1983.
• Ban hành "Hịch Chứng Minh Vũ trụ Thời Mạt Kiếp".
Ngày 9 tháng 9 Ất Mão, 13. 10. 1975. Chứng minh Thiện Ác phân minh.
Lập Pháp vận chuyển vũ trụ sang thời Thượng Kiếp. Bắt đầu chỉ dạy Bát Nhã Trí cho hàng Đại Thừa.
• Khai Long Hoa tại Nha Trang.
* Tổ Thừa Kế: theo lời phát nguyện cầu Giác Ngộ Rốt Ráo của một Chân Phật Tử. Tìm Vị Tổ Thừa Kế.
* Ma Vương đang lùng bắt Ngài: Diệu Dụng Súc Sanh Pháp đồng ứng với chúng sanh nên Đức Ngài đã thắng vì họ không nhận ra được Ngài là Phật để bắt.
* Tứ Chúng: cuộc thi lên lớp, thực hành "Chân Pháp là Pháp không chấp, không chướng" đưa hàng Tiểu Thừa lên Đại Thừa. Từ 3.000 Chân Tử chỉ đậu được 17 Vị được chứng minh hàng Tôn Giả.
Vợ và sáu người con của Ngài gọi là "Núi Thất Sơn nổ", "Thất Sơn sấm nổ vang rền" vì không có Thánh ý nên không nhận được Long Hoa, cứ chờ núi Thất Sơn Châu Đốc nổ.
– Thời kỳ Nhất Tôn: Hóa độ Nhất Thừa 1984 - 1989.
• Đắc Diệu Quả Phật ngày 25 tháng 10 Nhâm Thân, 1992 tại Trung Ương Huỳnh Thúc Kháng, Nha Trang.
Danh hiệu: Vô Thượng Di Lạc Tôn Phật.
– Thời kỳ Biệt Tôn Vô Thượng: Hóa độ Tối Thượng Thừa 1990 - 1993.
• Nhập Bát Đại Niết Bàn ngày 18 tháng 5 Quý Dậu, 1993.
Trung Ương số 6 Hùynh Thúc Kháng, Nha Trang.